Ở Việt Nam cây xoan có nơi gọi là cây sầu đông. Vì đến mùa đông lá cây bị rụng, chỉ còn lại thân, cành trơ trụi.
Còn cây neem mọc hoang và được trồng rộng rãi ở Ấn Độ nên có tên là cây
xoan Ấn Độ… Ngày nay Việt Nam đã nhập nội và trồng nhiều ở Ninh Thuận
cũng như rải rác ở một số nơi khác. Cây neem có khả năng trồng rộng rãi
trên nhiều loại đất, kể cả các vùng khô cằn, vùng đất đồi núi hay cát
biển. Tuy nhiên nếu được trồng ở vùng đất tốt,chăm sóc tốt thì sẽ cho
năng suất sinh khối và hoa quả cao hơn vùng khô cằn rất nhiều. Cây này
có tên khoa học là Azadiracta Indica A.Juss.
Cây
Neem được phát hiện là cây có nhiều lợi ích trong việc sử dụng làm
thuốc để chữa nhiều bệnh cho người như các bệnh trên da bao gồm mụn
trứng cá, bệnh lở loét, da nhăn nheo, da bị khô, bệnh vẫy nến, đầu bị
gàu, bệnh đái tháo đường, viêm gan, viên loét dạ dày và ruột, bệnh táo
bón, đau nhức mình mẩy. Dầu và bột lá neem cũng dùng để chữa trị nhiều
bệnh cho gia súc, gia cầm cũng như dùng làm thuốc trừ côn trùng, bệnh
cây rất có hiệu quả.
Tuy nhiên, ở
Ấn Độ ngày nay khai thác cây neem chủ yếu để bọc phân đạm làm phân nhả
chậm là chính. Vì Ấn Độ là nước có diện tích đất nông nghiệp lớn thứ 2
trên thế giới, hàng năm sử dụng hàng chục triệu tấn phân đạm để bón cho
cây, tỷ lệ thất thoát rất lớn, làm giảm năng suất, hiệu quả kinh tế cho
người sản xuất và gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Vì vậy, Chính
phủ Ấn Độ ngay từ những thập kỷ 50 - 60 của thế kỷ trước, đã ban hành
các chính sách quản lý mặt hàng phân bón rất chặt chẽ về chất lượng và
giá cả. Từ những năm 70 - 80, Ấn Độ đã trở thành quốc gia sản xuất phân
bón đứng thứ 3 và tiêu thụ phân bón xếp hạng thứ 2 trên thế giới. Cũng
từ đó Chính phủ phải gánh vác phần trợ giá nặng nề để giữ giá phân bón ở
mức thấp cho người tiêu thụ. Nhưng từ những năm 1990 thì Chính phủ có
chính sách hạ mức trợ giá phân bón xuống, nới lỏng kiểm soát phân P và K
mà tập trung vào kiểm soát, sử dụng cân bằng dinh dưỡng cho cây trồng.
Từ
những năm 1970, các nhà khoa học Ấn Độ đã báo cáo các đặc điểm kìm hãm
quá trình nitrit hóa của dầu neem đối với phân đạm và đến năm 1983 đã
phát triển công nghệ bọc ure bằng bánh dầu neem. Trong những năm 1980 và
1990 rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh tính ưu việt của phân đạm bọc
dầu neem so với phân ure thông thường. Đồng thời nghiên cứu sâu hơn về
hiệu quả nông học của ure bọc nimin (neem). Từ năm 2005 trở đi chính phủ
tập trung chỉ đạo vào hướng sử dụng cân bằng dinh dưỡng cho cây trồng
và cũng khuyến khích sử dụng dầu neem để bọc phân N, nhằm làm tăng hiệu
quả sử dụng phân đạm trên cả nước. Theo đó, Chính phủ cũng tập trung
khuyến khích vào công nghệ sản xuất ure bọc dầu neem là chính.
Nhận
thức được lợi ích của phân đạm bọc ure nên Chính phủ cho phép các nhà
máy sản xuất phân ure được bao giá dầu neem vào sản phẩm của họ và cho
phép giá bán ra chỉ cao hơn 5% so với giá phân ure trên thị trường. Nhờ
vậy mà ở Ấn Độ từ năm 2008 - 2009 cho đến năm 2014 - 2015, phân ure bọc
dầu neem sản xuất ra bao nhiêu đều tiêu thụ hết bấy nhiêu. Ví dụ, niên
vụ 2008 - 2009 sản xuất được 293.000 tấn thì tiêu thụ là 296.000 tấn.
Niên vụ 2014 - 2015 sản xuất được 8.415.000 tấn thì tiêu thụ hết
8.369.000 tấn. Có lẽ nhờ vậy mà từ tháng 5/2015, Chính phủ đã có chỉ thị
sản xuất 100% loại phân ure bọc dầu neem, kể cà loại ure nhập khẩu. Và
chỉ thị này phải được thực hiện trong vòng 6 tháng sau khi được ký. Về
lợi ích của phân ure bọc dầu neem được tóm tắt như sau: - Sử dụng phân
ure bọc dầu neem làm cải thiện năng suất 5 - 10%. - Tỷ lệ lợi nhuận cao.
- Cải thiện được hiệu quả sử dụng chất đạm và mang lại lợi ích to lớn
cho môi trường. - Chính sách của Chính phủ đạt được 2 mục tiêu lớn là
cải thiện được hiệu quả sử dụng chất dinh dưỡng trong sản xuất nông
nghiệp và cắt bỏ được việc trợ giá cho cây phi nông nghiệp.
MAI VĂN QUYỀN